Miếu
Bà Chúa Xứ là một công trình kiến trúc đẹp và tôn nghiêm, tọa lạc
dưới chân núi Sam, thuộc phường Núi Sam, thị xã Châu Đốc, tỉnh An
Giang. Đây
là một di tích nổi tiếng ở khắp vùng Đồng bằng sông Cửu Long, hàng
năm thu hút gần 2 triệu lượt người đến cúng bái, tham quan. Khách hành
hương, du lịch đến từ khắp nơi trên cả nước, tạo nên một mùa lễ hội
sôi nổi, đông đảo kéo dài suốt nhiều tháng.
Theo số liệu của Sở Văn hoá - Thể thao - Du lịch An Giang, nếu
năm 1990 có khoảng 1 triệu du khách đến miếu Bà thì năm 2007 đã có
trên 2,5 triệu lượt người đến. Sồ tiền khách thập phương hỷ cúng tại
miếu mỗi năm lên đến hàng chục tỷ đồng. Nhiều dự án giao thông, trường
học, trạm cấp nước phục vụ cho dân làng Vĩnh Tế đã được xây dựng từ
nguồn tiền này.
Thánh miếu bà Chúa Xứ (Châu Đốc - An Giang)
|
Lịch sử
Miếu Bà có từ khi nào cho đến nay vẫn còn là một điều bí ẩn, nhưng nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều cho rằng miếu thành hình
sau năm 1824. Tương truyền, lúc đầu, miếu Bà được xây dựng đơn sơ
bằng tre lá, nằm trên vùng đất trũng, lưng quay về vách núi, chánh
điện nhìn ra cánh đồng bát ngát. Năm 1870, miếu được xây lại bằng đá
miểng và lợp ngói. Đến năm 1972, miếu được xây dựng mới, đồ sộ và lộng
lẫy theo lối kiến trúc cổ kính phương Đông. Công trình là một quần
thể hoành tráng trên mặt bằng rộng với dãy Đông lang, Tây lang, chánh
điện, nhà khách…theo đồ án của kiến trúc sư Huỳnh Kim Mãng, nhưng xây
dựng dở dang. Mãi đến năm 1995, Ban Quản trị lăng miếu núi Sam mới
tiếp tục xây dựng phần còn lại.
Cảnh quan nhìn từ trên xuống
|
nơi tọa lạc của Miếu Bà cũ
|
Kiến trúc
Ngôi
miếu có bố cục kiểu chữ 国 - Quốc, hình khối tháp dạng hoa sen nở,
mái tam cấp ba tầng lầu, lợp ngói đại ống màu xanh, góc mái vút cao
như mũi thuyền đang lướt sóng. Các hoa văn ở cổ lầu chánh điện thể
hiện đậm nét nghệ thuật. Phía trên cao, các tượng thần khỏe mạnh, đẹp
đẽ giăng tay đỡ những đầu kèo. Các khung bao, cánh cửa đều được chạm
trổ, khắc, lộng tinh xảo và nhiều liễn đối, hoành phi lộng lẫy. Đặc
biệt, bức tường phía sau tượng Bà, bốn cây cột cổ lầu trước chánh điện
gần như được giữ nguyên như cũ.
Chánh
điện gồm hai lớp. Lớp trong cùng là nơi thờ Bà Chúa Xứ với tượng Bà
bằng đá đặt trên bệ cao, sát hai bên là hai con hạc trắng biểu tượng
cốt cách tiên thánh của Bà. Bên phải tượng Bà là một linga cũng bằng
đá đặt trên một hương án thờ, gọi là bàn thờ Cậu. Bên trái tượng Bà là
hương án thờ một tượng gỗ chạm hình yoni, gọi là bàn thờ Cô. Lớp thứ
hai là bàn thờ Hội đồng, sát liền hai tượng chim phượng. Hai bên trái,
phải của bàn thờ Hội đồng là bàn thờ Tiền hiền khai khẩn (ở bên trái)
và bàn thờ Hậu hiền khai cơ (ở bên phải).
Ngay
lối vào chánh điện có đôi câu đối thể hiện quyền lực linh thiêng của
Bà trong việc ban phúc, bảo vệ nhân dân. Nội dung như sau:
求必應試必霛夢中指示暹可驚清可慕意外難量Phiên âm:
Cầu tất ứng, thí tất linh, mộng trung chỉ thị
Xiêm khả kinh, Thanh khả mộ, ý ngoại nan lượng
Dịch nghĩa:
Cầu nhất định được, ban nhất định linh, báo cho biết trong mộng
Người Xiêm phải sợ, người Thanh phải nể, không thể tưởng tượng nổi
Non linh đất phước trổ hoa thần,Riêng chiếm vườn hồng một cảnh xuân.Tuyết đượm nhành tiên in sắc trắng,
Sương pha bóng nguyệt ánh màu ngân...1- Lễ vía Bà Đen/Linh Sơn Thánh Mẫu cử hành vào ngày 5.5 âm lịch. Song Hội xuân ở núi Điện Bà thu hút đông đảo khách hành hương lại là 3 tháng đầu năm, mặc dù lễ hội chính là Rằm đến 18 tháng Giêng. Đi chùa quanh năm không bằng rằm tháng giêng...
Năm 1901, theo lời mời của các bạn thơ ở Tây Ninh, bà Sương Nguyệt Anh (con gái cụ Đồ Chiểu và là chủ bút tờ báo phụ nữ đầu tiên ở xứ ta là Nữ giới chung) cùng họ hành hương lên núi Điện Bà, nhân đó thưởng hoa bạch mai nở trắng rừng. Thừa hứng, bà đề vịnh bạch mai trên chùa núi và rồi, viết tiếp hai bài thơ thất ngôn chữ Hán để tặng càc thi hữu, tựa là Linh sơn nhất thụ mai. Ông Tô Ngọc Đường giữ thủ bút này mãi về sau như một kỷ niệm quí báu, đến những năm 1970 đưa cho ông Huỳnh Minh chụp ảnh công bố trong sách Tây Ninh xưa và nay...Câu chuyện văn chương còn dài xin gác lại. Ở đây, chúng ta thấy núi Điện Bà đến những năm đầu thế kỷ XX đã trở thành một địa điểm hành hương - du lịch, thu hút khách xa tận miệt Sài Gòn. Tây Ninh nói chung, núi Điện Bà nói riêng, bấy giờ là vùng “hậu bối” nguyên sơ của xứ đô hội phù hoa Sài Gòn - Gia Định, nơi đang diễn ra cuộc tranh thương gay cấn và sự va đập của phong hoá mới - cũ, với sự lấn lướt của lối sống tân thời. Tuồng như bấy giờ Tây Ninh là một tụ điểm của tầng lớp trung lưu hoài cổ. Võ Sâm biên soạn tuyển tập văn học cổ Thi phú văn từ và tập hợp quanh ông những danh sĩ địa phương để ngâm thơ xướng hoạ. Kế đó Quốc Biểu Nguyễn Cư Hiến thành lập Văn đàn Quốc Biểu (1923) hội họp nhau bàn luận văn chương và sáng tác hàng tuần vào mỗi chủ nhật ở Gò Chẹt... Tất thảy việc ngâm thơ xướng hoạ, lên núi thưởng hoa, vịnh thơ... nghe như đượm cái dư vị của tao đàn Chiêu Anh Các, của Bạch Mai/ Sơn Hội thi xã của một thời quá vãng. Lại cả Thiền sư Từ Phong từ Chợ Lớn cũng lên Tây Ninh lập chùa Từ Lâm ở Gò Kén và những thành viên của một tôn giáo mới với xu hướng trở về với nguồn cội Nho - Phật - Lão (qui nguyên tam giáo) đậm tính chất tiên đạo là đạo Cao Đài cũng chọn Tây Ninh làm nơi khai đạo và đặt trụ sở toà thánh... Một cái nhìn toàn cảnh như vậy là nhằm chỉ ra những tiền đề lịch sử - văn hoá của tín ngưỡng thờ Bà Đen/ Linh Sơn Thánh Mẫu và xác lập thời điểm của mức độ phát triển vượt khỏi không gian văn hoá địa phương sở tại của địa điểm thiêng này là đầu thế kỷ XX, để đến năm Bảo Đại thứ 10 (1935), vị thần linh dân dã Bà Đen/ Linh Sơn Thánh Mẫu đã có đủ uy linh và “thế lực” được sắc phong làm “Đức Bảo Trung hưng linh phù chi thần”.
2. Núi Bà Đinh/ Bà Đen là ngọn núi duy nhất trong mục “sơn xuyên” của trấn Phiên An trong sách Gia Định thành thông chí (GĐTTC). Theo ghi chép này thì núi Bà Đinh: 1) trên núi có chùa Vân Sơn; 2) ở đó có “Thôn lạc của người Thượng (hiểu là các dân tộc ít người) và người Kinh sống nhờ vào khai thác lâm sản; 3) tương truyền: có khi “thấy cả chuông vàng trong hồ”, “những đêm trời tạnh thuyền rồng bơi lặn trong hồ” (1).
Các chi tiết của đoạn ghi chép này có mấy điều đáng lưu ý khi truy nguyên về tập tục thờ Bà Đen ở núi này.
a. Một là tên núi được ghi âm là Bà Đinh. Tên gọi này cũng thấy ghi chép tương tự trong Đại Nam liệt truyện tiền biên (biên soạn 1852), mục nói về Nguyễn Cư Trinh, năm 1755, đưa 5.000 dân Côn Man (Chăm) về đóng ở dưới chân Bà Đinh sơn (2). Điều này đã chỉ ra tên gọi Bà Đen của núi này (và về sau, là tên của vị nữ thần chính được thờ tự ở đây) đến thế kỷ XIX là chưa định danh. Nói cách khác, Bà Đinh/ Bà Đen là địa danh phiên âm chứ không phải địa danh có nghĩa, tức do nơi này đã là nơi thờ tự một nữ thần là Bà Đen nên được gọi tên là núi Bà Đen như cách hiểu về sau này. Do đó, việc truy cứu nguyên uỷ của vị nữ thần này buộc phải tìm tòi ở một hướng khác: các tư liệu lịch sử - văn hoá của các tộc người cộng cư với người Kinh ở khu vực này, tức cộng đồng mà tác giả GĐTTC gọi là cộng đồng man/ thượng/ mọi (tuỳ theo từng dịch giả) - mà cụ thể là người Khmer và người Chăm (tức những người Côn Man định cư ở đây từ 1755).
Trong kho tàng truyện dân gian Khmer, có nhiều câu chuyện dựng theo môtip “trai gái thi nhau đắp núi”: phe nào đắp cao hơn (trong một đêm) thì giành phần thắng, buộc phe kia phải đi cưới. Dị bản nói về sự ra đời của núi Bà Đen kể rằng: bên phụ nữ đắp núi Bà Đen và bên nam giới đắp núi Cậu. Bên phụ nữ, do Mê Đêng/ Mê Đênh cầm đầu, đã cố công đắp ngọn núi. Còn bên nam giới ỷ lại, cứ lo vui chơi nên thua cuộc. Sáng ra, núi Câêu thấp hơn núi Bà và bên nam giới đã xui một con voi đến phá núi nhưng chưa kịp phá thì Mê Đeng làm phép, voi hoá thành đá. Chàng trai nọ lại xúi bầy heo rừng xộc đến ủi núi Bà cho sụp. Bầy heo bị nên nữ làm phép hoá thành một ngọn núi nhỏ - gọi là núi Heo và bên nam giới lại sai bầy gà đến bới núi Bà: cũng bị hoà thành một ngọn đồi. Cuối cùng chàng trai đích thân phá núi: hốt đất rải tứ tung. Do vậy, núi Bà Đen đến nay vẫn còn 3 ngọn núi, đồi nằm bên cạnh, được gọi là núi Tượng, núi Heo, núi Gà và những đồi thấp bên chân núi Bà Đen.
Theo sự tích này, Mê Đêng có thể được lấy tên chỉ định cho núi và có thể được tôn thờ và lưu truyền qua thời gian. Trường hợp có phần tương tự như ao Bà Om ở Trà Vinh. Cụ thể là Phnom Mê Đêng về sau âm là Bà Đinh/ Bà Đen và vị nữ thần được tôn thờ trên hang đá cũng được gọi là Bà Đen (3).
b. Tập tục thờ Bà Đen cũng có thể bắt nguồn từ tín ngưỡng Khmer, mà phổ biến, vị nữ thần này được định danh là Dây Khmau/ Dì Đen (như tượng đồng đen thờ ở Sala chùa Sần-ke (xã Trường Khánh, Long Phú, Hậu Giang) hay phổ biến hơn là Arặc Khmau (Arặc Đen) của tín ngưỡng Arặc - nữ thần bảo hộ thị tộc, mang tính chất saman giáo/ đồng bóng. Thoạt tiên, vị nữ thần này được coi như bà tổ của một dòng họ và về sau được đồng nhất với các nữ thần Bà la môn giáo, một số được định danh bằng tên gọi các màu sắc: đen (khmau), đỏ (càhom), xanh (khiêu)... Hiển nhiên, tập tục thờ một nữ thần khmau/ đen là phổ biến trong tín ngưỡng Khmer, nhưng khả năng từ Arặc khmau/ Dây khmau có thể dịch nghĩa trở thành Bà Đen là đặc biệt hiếm, vì hầu như các trường hợp “Việt hoá” phổ biến là phiên âm. Hiểu là không dịch nghĩa. Chẳng hạn xứ Tưk khmau (nước đen) được gọi là Cà Mau hay xứ Mê So (Nàng Trắng) được gọi là Mỹ Tho, Sva Ton (khỉ níu) được gọi là Xoài Tón (Tri Tôn) v.v. Nói cách khác, chúng tôi vẫn thiên về ý kiến trình bày ở mục 1 trên đây hơn là trường hợp sau này. Tất nhiên, ở đây cũng cần lưu ý rằng việc gọi vị nữ thần ở núi Điện bà là Bà Đen, về mặt ngữ nghĩa, đã cho thấy sự xác định đây là một nữ thần gốc sắc tộc có màu da sậm/ đen.
c. Tác động của tín ngưỡng Chăm vào Bà Đen là một khả năng có thể có từ sự giao lưu văn hoá do quá trình cộng cư của cộng đồng Chăm/ Côn man từ giữa thế kỷ XVIII (kéo dài về sau). Ở vùng núi này, chúng ta có địa danh Hang Chàm (và ở gần chợ Tây Ninh có địa danh Cống Chàm): song rõ ràng đây là cách gọi của người Việt, tức không chỉ rõ hướng ảnh hưởng từ Chàm đến Việt. Biểu hiện rõ giao lưu văn hoá Chàm - Việt là việc gọi tên núi Bà Đen là núi Bà và ngọn núi phía Dầu Tiếng là núi Cậu. Bà-Cậu gốc từ tập tục tín ngưỡng Pô Inư Nagar (Mẹ Xứ Sở/ Chúa Xứ). Theo thần tích của nữ thần Mẹ Xứ Sở này, tức Thiên y Ana, thì bà có hai người con với Thái tử Bắc Hải: cậu Trài, cậu Quí - được thở phụng phổ biến ở Nam Bộ với danh hiệu Nhị vị công tử. Do đó, việc gọi núi Bà Đen là núi Bà trong tâm thức văn hoá tín ngưỡng Chăm/ Côn Man ở đây hẳn có sự đồng nhất vị thần trên núi Điện Bà với Mẹ Xứ Sở/ Pô Inư Nagar. Điều này cho thấy khả năng đồng nhất Bà Đen với nữ thần Muk Juk (hiểu là Mụ Đen) và mặt khác, chứng tích của tục thờ Cậu ở núi Điện Bà là ngôi miếu Cậu hiện tồn.
3. Đối với người Việt, Bà Đen có hai thần tích: 1.Nàng Đênh và 2.Lý Thị Thiên Hương. Cả hai đều có mỹ hiệu là Linh Sơn Thánh Mẫu.
a. Cứ như GĐTTC (đầu thế kỷ XIX) đã ghi thì trên núi có chùa Vân Sơn và ở Đại Nam nhất thống chí (cuối thế kỷ XIX) thì gọi là chùa Linh Sơn. Về tự dạng hán tự, chữ Vân và chữ Linh có tự dạng giống nhau nên “Linh” có thể chép nhầm là Vân. Ngược với giả định chép lầm, chúng ta thấy thoạt đầu trên núi có một ngôi chùa với tên gọi là Vân Sơn có tính hiện thực: núi cao có mây phủ và mang màu sắc thoát tục của tiên đạo hơn là Phật giáo. Điều đó cũng hợp hơn những truyền thuyết về chuông vàng, rùa vàng và thuyền rồng bơi lượn múa hát - du dương mà tác giả GĐTTC đã chép. Rồi về sau mới đổi tên là Linh Sơn do là sự cải đổi theo quan niệm chính thống của Phật giáo mặc dù vẫn còn tồn tại tên gọi là Điện Bà Sơn (Đại Nam nhất thống chí). Linh Sơn (núi linh) chỉ ngọn núi có hình con ó (núi Kênh kênh) gần thành Vương Xá (Rajagriha); tên gọi theo âm Phạn là Kỳ Xà Quật (Garudhakuta) - dịch nghĩa theo truyền thống Phật giáo Bắc truyền là Thứu Sơn, Linh Thứu Sơn, Kê Túc Sơn. Theo truyền thống Ấn Độ, Linh Sơn là ngọn núi thiêng, nơi các thiên thần thường hiện về. Khi Đức Phật tại thế, Phật đã thuyết pháp ở đây và về sau, núi Kênh Kênh trở thành một trong những thánh địa Phật giáo nổi tiếng. Theo đó, các xứ khác, như Trung Hoa, Việt Nam thường đặt tên các sơn tự là Linh Sơn tự, Thứu Sơn/ Thứu Lĩnh tự...
2/2/2012
Dzoãn Tiến Đạt